1. Tin tức
  2. Thông tin tuyên truyền
  3. Sống bên các dòng sông

Sống bên các dòng sông

22/7/2019
28 lượt xem

Phóng sự: Sống bên các dòng sông

Với lợi thế về địa hình, nguồn nước, khí hậu, các con sông và hệ thống suối, kênh, rạch cùng hồ đập ở Bắc Tân Uyên được xem là tiềm năng lớn để phát triển ngành nông nghiệp hay xa hơn là tạo nên vùng du lịch sinh thái sông nước khám phá văn hóa và lịch sử ở vùng đất chiến khu Đ. Tuy nhiên, dưới góc nhìn của khoa học về thiên văn và địa lý thì không ít rủi ro cũng đang rình rập vùng đất này mỗi khi mùa mưa bão kéo đến.

Vùng đất Chiến khu Đ nơi 2 con sông giao nhau

Ngược lại, dưới góc nhìn của văn hóa và lịch sử thì nhạc sĩ Võ Đông Điền miêu tả vùng đất “Hai dòng sông một miền quê” này như một bức tranh sơn thủy hữu tình đầy thơ mộng làm say đắm lòng người dù chỉ một lần đặt chân đến nơi đây. Càng ý nghĩa hơn khi biết rằng vùng đất này từng là cái nôi của cuộc cách mạng kháng chiến chống Mỹ còn lưu nhiều dấu tích lịch sử. Đến để khám phá thêm cái thú vị về bản sắc con người nơi đây, những con người đầy dũng khí nhưng không thiếu tính nghệ thuật, trong đó có Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ. Đó là bản sắc riêng của người dân sống ở nơi giao nhau của 2 con sông lớn Nam Bộ. Theo các nhà nghiên cứu thì mỗi dòng sông là một chiếc nôi góp phần hình thành nên bản sắc riêng nào đó của một địa phương. vì chính không gian mà các con sông tạo ra cùng cảnh trí đôi bờ đã nuôi dưỡng những cảm xúc về nghệ thuật, từ đây sản sinh ra những điệu hát câu hò hay hình thành nên những bản sắc riêng về tập tính sinh sống của cộng đồng cư dân để phân định dòng sông nọ khác với dòng sông kia. Và Bắc Tân Uyên, nơi 2 con sông giao thoa lại hình thành thêm một bản sắc rất riêng nữa là như thế đó.

Sông Bé hùng vĩ với dòng chảy mạnh và dữ dằn khiến không ít người phải ngán ngại khi đối mặt với nó. Mùa này nam bộ bước vào mùa mưa, dòng chảy của sông bé càng mạnh khi mực nước dâng cao đỉnh điểm đến khoảng 3 mét và đang chuyển màu xanh sang đỏ càng thấy con sông mới hùng vĩ làm sao. Thế nhưng, kỳ lạ thay khi biết rằng, ngoài vẻ dữ dằn ấy là sự bao dung đến lạ khi mang đến phù sa màu mỡ cho hàng triệu cây cao su xanh ngát, hàng ngàn hecta vườn cây có múi trĩu quả, thơm ngọt. trong đó có xã Bình Mỹ, Tân Định và Hiếu Liêm của Bắc Tân Uyên. Cũng như nhiều dòng sông khác, sông Bé là nơi che chở và mang đến nguồn sinh kế cho nhiều người, chủ yếu là những cư dân hai bên bờ. Sông bé không có con nước lớn ròng theo thủy triều, cũng không phải là nơi dành cho tàu thuyền lưu thông, nhưng với phù sa cùng nguồn thủy sản mà nó mang lại đã giúp người dân làm kế sinh nhai.

Những năm trước đây, khi Sông Bé còn là nơi rừng thiêng nước độc đã khiến nhiều người cũng vì nó mà phải "bỏ của chạy lấy người" bởi cơn bệnh sốt rét. Nhưng với ông Năm Cá Lăng (tên thật là Phạm Văn Đáo năm nay 77 tuổi), theo cách gọi của người dân nơi đây bởi ông có biệt tài săn cá lăng trên con sông này, thì ông cho biết, thời điểm đó ông và gia đình bị sốt rét dữ dội, nằm lăn lộn hết xuống nền đất nhưng ông vẫn kiên trì, bám trụ đến cùng để làm nơi sinh sống cùng với gia đình. Ông có khoảng 2 hecta cam đang cho trái ngọt ngay sát bên bờ sông bé, tại khu vực hàng tam đẳng thuộc xã Tân Định. Hiện nay cuộc sống đã khá ổn định nhưng mọi sinh hoạt, ăn uống của ông và gia đình vẫn gắn liền với con sông.

Sông Bé là vậy, chỉ tiếp đón những ai biết trân trọng và chung thủy với nó. Để rồi bao đời nay cứ cần mẫn, vội vã tích cóp phù sa từ thượng nguồn mang về bồi đắp cho vùng hạ lưu, hiến tặng cho Bắc Tân Uyên rồi kết thúc dòng chảy khi đã đi được gần 400km sau đó hòa quyện vào dòng Đồng Nai.

Khác với sông Bé, không hung bạo mà chỉ êm đềm, lặng lẽ, sông Đồng Nai luôn chứa đựng tàu ghe giao thương tấp nập. Tuy chảy qua ngắn ngủi so với chiều dài gần 600 km nhưng sông Đồng Nai có sức ảnh hưởng không nhỏ đối với đời sống cư dân vùng Chiến khu Đ. Nhờ con sông, cư dân ở đây biết chọn cách di chuyển độc đáo và thông minh theo con nước để vận chuyển sản vật của mình ra giới thiệu cùng bạn bè bốn phương. Ngoài nguồn lợi thủy sản cư dân trên bờ cũng khôn khéo chọn cho mình nghề phù hợp để tận dụng phù sa của con sông mang lại đó là trồng lúa. Cây lúa đã giúp cư dân xã Lạc An, Thường Tân và Tân Mỹ của Bắc Tân Uyên trụ vững ở vùng đất này từ bao đời nay.

Cụ Nguyễn Văn Ninh, một người dân lớn tuổi đã sinh ra và lớn lên tại xã Thường Tân cho biết: góc rễ gia đình ông mấy đời ở mãnh đất này đều làm ruộng, cứ mỗi năm 2 vụ ông và người dân trong vùng đều canh con nước của Sông Đồng Nai để mà gieo cấy đã tạo ra một cánh đồng tương đối rộng lớn ở khu vực này. Những năm gần đây do già yếu ông giao cho con cháu tiếp tục làm và cứ như một cái nghề truyền thống được cha truyền con nối từ rất lâu. Càng thú vị hơn khi biết cụ Ninh thời kỳ kháng chiến bị Mỹ đánh chạy sang bờ đối diện nhưng cụ vẫn bám theo con sông để mà trồng lúa sinh sống.

Bên cạnh 2 con sông lớn của Đông Nam Bộ, Bắc Tân Uyên còn có hệ thống suối kênh rạch, hồ đập cũng rất đa dạng và phong phú. Có thể nói, thiên nhiên như ưu đãi cho vùng đất này để cư dân nơi đây có đủ nguồn nước canh tác nông nghiệp, nuôi sống bản thân và làm kinh tế. 12 con suối và 119 tuyến kênh mương chính với tổng chiều dài hơn 110km là một thống kê chưa đầy đủ khi chưa tính cả kênh, rạch phụ chảy ra từ các hồ đập đang cắt ngang sẽ dọc Bắc Tân Uyên như tạo ra mao mạch lưu dẫn nguồn nước nuôi dưỡng từng con người và cỏ cây nơi đây.

Tất cả ở đó từ rất lâu, từng chứng kiến nhân dân chiến khu Đ chiến đấu anh dũng để bảo vệ vùng đất màu mỡ và trù phú này. Ước tính của các nhà chuyên môn thì Tổng lượng dòng chảy qua 2 con sông lớn bao bọc và hệ thống suối, kênh, rạch đan xen trong vùng khoảng gần 20 tỷ mét khối nước mỗi năm, đủ để nuôi sống hàng triệu con người và làm màu mở hàng triệu hecta đất nông nghiệp cho cả khu vực Đông Nam Bộ nếu như biết cách điều khiển nó.

Thiên nhiên ưu ái là vậy, nhưng nếu như con người không biết dung hòa, chia sẽ và bảo vệ sẽ phải đối mặt với sự giận dữ của nó. Con người nói chung trên quả đất hình cầu này đã và đang ra sức tàn phá môi trường khiến không ít lần thiên nhiên kêu gọi nó lên tiếng giận dữ và trút cơn thịnh nộ làm cho vùng đất thơ mộng, gian lao và anh dũng này không ít lần phải cố gắng gượng dậy sau mỗi trận lũ.

Cách đây hơn 60 năm về trước, còn nhớ trận lụt lịch sử Nhâm Thìn năm 1952, năm ấy không riêng gì chiến khu Đ mà cả vùng Đông Nam bộ đều gánh chịu trận thiên tai nặng nề, gây thiệt hại rất nhiều về người và của. Những người cao niên trải qua trận lụt năm ấy kể lại, khoảng giữa tháng 10-1952, trời mưa lớn kéo dài nhiều ngày khiến nước sông Đồng Nai, Sông Bé dâng cao thành một bể nước mênh mông, chảy cuồn cuộn từ phía thượng nguồn đổ xuống khu vực hạ lưu. Các địa phương ven sông Đồng Nai và hạ nguồn Sông Bé đều bị ngập nước. Đỉnh điểm là đêm 18/10/1952, kết hợp với mưa là một cơn bão lớn khiến sự tàn phá của thiên tai càng thêm dữ dội. Trong đợt bão lụt này, khu vực căn cứ Chiến khu Đ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Cây cối ngã đổ, nước dâng ngập khắp nơi. Hầu hết ruộng nương, hoa màu, tài sản, nhà cửa, kho tàng hậu cứ đều bị phá hủy, cuốn trôi; nhiều người bị chết, mất tích vì lũ lụt. Sau đó là nạn đói, dịch tả xảy ra ở khắp nơi, khó khăn lắm người dân khu vực này mới vượt qua được.

Cụ Nguyễn Văn Văn Ninh năm nay 82 tuổi là người từng trãi qua trân lụt năm đó nên rất hiểu người dân phải sống khổ sở như thế nào. Năm đó lúa gạo đều chôn dưới đất do sợ giặc Pháp đánh thì đốt hết, do đó khi nước ngập thì tất cả đều bị hư, chỉ những gia đình nào may mắn lắm mới còn lại những củ khoai mì không thúi để làm thức ăn. Sau trận lụt, Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ đã kêu gọi nhân dân tiến ra bờ sông để trồng lại bất cứ cây lương thực nào có để cứu đói nhanh nhất có thể.

Hay gần đây nhất là trận lụt năm 2.000, tuy không thiệt hại về người nhưng cũng đủ làm cho cuộc sống của người dân khổ sở đến mức kiệt huệ. Ông năm Cá Lăng kể lại, năm đó nước ngập hết nữa căn nhà, ông và gia đình phải leo lên gác chờ những người ở trên đồi đem ghe xuống rước lên. Năm đó cao su, cà phê đều bị chết hết, người dân kể như trắng tay đều phải đi vay mượn để làm lại từ đầu.

Trận lụt Nhâm Thìn năm 1952 được xem là trận lụt lớn nhất thế kỷ 20 ở khu vực Bắc Tân Uyên cũng như cả vùng Đông Nam Bộ. Và đó như là một lời cảnh cáo cho sự vong ơn của con người đối với thiên nhiên khi không biết dung hòa và bảo vệ nó.

Thơ mộng hữu tình là vậy, nguy hiểm rình rập cũng từ đây mà ra, ở một góc nhìn khác nữa thì các nhà hoạch định và quản lý có nhìn thấy được những điều này hay không Nếu thấy họ đã làm gì để giữ bình yên cho vùng đất nơi đây Và liệu trận lũ lịch sử Nhâm Thìn năm 1952 có lập lại theo chu kỳ 60 năm như lời cụ Nguyễn Văn Ninh kể lại từ người xưa hay không Để trả lời những câu hỏi này, mời đọc giả tiếp tục theo dõi phóng sự: “Chủ động phòng chống thiên tai - lũ lụt bên các dòng sông”./.

                                                                                                Bảo Nam

         



Đánh giá bài viết: 0.00/5 - 0 đánh giá
Thích bài viết: 0 lượt thích